Giới thiệu về thị trường chứng khoán

Bạn có muốn mình là chủ của một doanh nghiệp mà không phải xuất hiện trong khi làm việc? Hãy tưởng tượng rằng bạn sẽ ngồi một chỗ và thu lợi tức cổ phiếu khi đồng tiền luân chuyển cùng với sự phát triển của công ty.

Bối cảnh hình thành thị trường chứng khoán

Trong nền kinh tế thị trường, sự phát triển và ra đời của mỗi loại hình hàng hoá, dịch vụ đều bắt nguồn từ cái đơn giản nhất, đó chính là “nhu cầu” của con người.

Doanh nhân với vấn đề quay vòng vốn

Doanh nhân có thể có đủ vốn lưu động cho vòng quay đầu nhưng đến vòng thứ hai, thứ ba, họ phải đi vay vốn lưu động để duy trì sản xuất. Vòng quay càng dài thì càng phải vay nhiều.

Cơ sở trao đổi giữa doanh nghiệp và công chúng: đền bù rủi ro kinh doanh

Doanh nhân cần vốn ngắn, vốn dài, nhưng hàng làm ra có thể không bán được, bị hỏng, bị mất. Hàng mất thì không có doanh thu. Cho nên công việc làm ăn của doanh nhân luôn luôn có rủi ro, gọi là rủi ro kinh doanh.

Bước phát triển của thị trường chứng khoán

Khi đã có các yếu tố chuẩn bị này thì hệ thống tài chính làm trung gian phải có phương tiện và kỹ thuật tương ứng giúp công chúng và doanh nhân trao đổi với nhau được.

Thứ Bảy, 1 tháng 8, 2015

Vấn đề “giá trị thực” và “giá trị ảo” của cổ phiếu

        Vấn đề “giá trị thực” và “giá trị ảo” của cổ phiếu (CP) đã được các chuyên gia phân tích đề cập khá nhiều và đồng thời cũng là câu hỏi mà tất cả công chúng đầu tư đều quan tâm. Tuy nhiên, phần lớn “giá trị thực” đều dựa trên những thông tin thiếu chính xác và khó có thể coi là “thực”. Có nhiều nhà đầu tư “nói về “giá trị thực” của CP mà không biết rõ lĩnh vực hoạt động, tình hình kinh doanh và tài chính của công ty phát hành CP ra sao, triển vọng tăng trưởng thếnào… Các chuyên gia chứng khoán lại bàn về “giá trị thực” trong khi bản thân họ cũng không thể nói chính xác và thông nhất với nhau “giá trị thực” được tính như thế nào. Vậy “giá trị thực” là gì?

       Với phương pháp DCF (định giá CP thông qua chiết khấu luồng thu nhập), sử dụng Po (giá trị tài sản ròng vào thời điểm niêm yết) và E (lợi nhuận ước tính của doanh nghiệp trong 5 năm) để tính giá trị thực. Tuy nhiên, liệu kết quả có “thực” không khi:

Vấn đề “giá trị thực”

       Giá trị tài sản ròng hoàn toàn dựa trên giá trị sổ sách, không có liên hệ nhiều với giá trị thị trường của những tài sản này tại thời điểm niêm yết và chịu ảnh hương rất nhiều bởi các chính sách kế toán được áp dụng trước đó.

-     Lợi nhuận trong tương lai chỉ là ước tính dựa trên giá định của từng cá nhân.

-    Giá trị sinh lợi của doanh nghiệp từ sau năm thứ 5 hoàn toàn bị “quên” và không được tính vào giá trị “thực”, trong khi phần giá trị này là không nhỏ trong toàn bộ giá trị nội tại của một doanh nghiệp…



Hạn chế của kỹ thuật phân tích đầu tư bằng hệ số

        Các hệ số tài chính chỉ cung cấp một phần thông tin cần thiết để đánh giá hoạt động và hiệu quả chung của một công ty. Các yếu tố thống kê khác như rủi ro, cần được tính đến để có được một bức tranh toàn cảnh về tình hình tài chính của một công ty.

        Ngoài ra, việc so sánh các hệ số có thể dẫn đến sai làm một số phép tính. Một công ty có thể đã thông qua các chuẩn mực kếtoán mới, tức là công ty này đã chuyển từ cách đánh giá hàng dự trữ FIFO (nhập trước xuất trước) sang LIFO (nhập sau xuất trước). Công ty có thể đã đổi từ phương pháp khấu hao trực tuyến sang phương pháp khấu hao tăng tốc. Thông qua việc sáp nhập, công ty có thể được xác định thuộc ngành công nghiệp mối. Tương tự, giá trị tài sản của công ty có thể được khai chưa đúng giá trị do lạm phát cao. Một vài số liệu ngành có thể cũng đã sai lệch, đặc biệt nếu các số liệu trung bình có tính đến nhiều công ty nhỏ, yếu về tài chính.

         Bạn cũng cần thận trọng để đánh giá loại nợ mà công ty bạn đang nghiên cứu phải gánh chịu. Nếu các khoản vốn được huy động bằng phát hành trái phiếu chuyển đổi đã đến hạn thanh toán hoặc được chuyển đổi sóm, thì việc giải thích hệ số D/E sẽ khác với khi nợ thể hiện bằng các đợt trái phiếu có lãi suất cố định. Tương tự, một số công ty có thể huy động vốn đầu tư của mình bằng các khoản thuế ngắn hạn. Do đó, một số hệ số tài chính sẽ được công bốkhông chính xác do kết quả của cơ cấu tài chính này. Điều này đặc biệt đúng đối với hệ số thu nhập trên đầu tư ROI.

Hạn chế của kỹ thuật phân tích

         Cũng nên thận trọng khi sử dụng các dữ liệu được công bố, vì các số liệu ngành đôi khi chỉ thể hiện cho các công ty hoạt động tốt nhất và có tình hình tài chính khả quan. Ngoài ra, việc phân loại các công ty cụ thể thành một ngành là rất khó khăn, vì hầu hết các công ty đều có dây chuyền sản xuất khác nhau. Vấn đề này có thể làm sai lệch so sánh các hệ số của công ty với các hệ sô của ngành.

         Ngoài ra, cũng nên dè chừng với các công ty tìm cách thao túng những con số của mình bằng cách bán tài sản của mình hay những thủ thuật đối với chi phí thay thế. Mặc dù nghiệp vụ  kế toán đã được cải tiến nhằm giải quyết các vấn đề này, nhưng có nhiều cách giải thích và phương pháp khác nhau trong việc lập các báo cáo tài chính có thế che giấu điểm mạnh hay điểm yếu thực tê của một công ty. Do vậy, khi thực hiện phân tích các báo cáo tài chính và các hệ số tài chính, cần phải biết rằng các nhà phân tích và các nhà quản lý có thể đưa ra các giải thích khác nhau. Tóm lại, cần thận trọng khi phân tích một công ty dựa trên cơ sở các hệ số tài chính và phải tính đến các hạn chế có liên quan đến các hệ số này.



Kỹ thuật phân tích đầu tư bằng hệ số

         Mỗi hệ số đề cập ở các phần trước chỉ cung cấp một số thông tin về mức độ hiệu quả trong hoạt động của một công ty. Tuy nhiên, như các bạn biết, việc phân tích tài chính đặc biệt có ý nghĩa khi bạn có một số chuẩn mực để có thể so sánh với các hệ số của một công ty, bạn không chỉ muốn xem khả năng sinh lòi, khả năng thanh toán, tình trạng nợ và các môi liên hệ hoạt động của một sông ty là cao hay thấp, và các yếu tố này đang được cải thiện hay xấu đi, mà bạn còn muốn xác định mức độ hiệu quả hoạt động của cồng ty đó so với các đối thủ cạnh tranh khác, so với ngành hay so với công ty hoạt động tốt nhất cùng ngành.

        Mặc dù nhà quản lý của một công ty có thề tính toán các hệ số của các công ty khác, những các thông tin này đã có sẵn từ các nguồn công khai, chẳng hạn như: Niên giám các hệ số tài chính công nghiệp và kinh doanh, các hệ số kinh doanh chủ yếu, các trang tài chính công ty của các cơ quan định mức tín nhiệm… Các nguồn này cung cấp các hệ số của từng công ty và ngành có thể dùng để so sánh.

        Người ta có thể so sánh những hệ số tài chính chuẩn này với các hệ số của một công ty nào đó để xem chúng khác nhau hay tương tự.

Kỹ thuật phân tích đầu tư

        Hệ số thu nhập trả lãi định kỳ của công ty giảm, một phần do tỷ lệ nợtrên vốn cổ phần tăng mạnh, nhưng vẫn lớn hơn mức trung bình của ngành. Hơn nữa, bạn có thể thấy ngay rằng nói chung khả năng thanh toán và sinh lợi cũng như khả năng trả nợ lại lớn hơn các công ty cùng ngành. Có một điểm kém hấp dẫn là biến động trong đòn bẩy tài chính của công ty (nợ trên vốn cổ phần), hệ số này đã lên đến 45% và vào thời điểm năm 2005 đã cao hơn hẳn mức trung bình của ngành. Yếu tố này cho thấy rằng trong tương lai công ty nên phát hành cổ phiếu hơn là trái phiếu nhằm giữ hệ số nợ trên vốn tương đương với mức hợp lý của ngành.

          Bảng cũng cho thấy mặc dầu tỷ lệ tăng trưởng của công ty tương đương với mức trong toàn ngành nhưng tỷ lệ giá trên thu nhập (P/E) lại cao hơn, chủ yếu là khả năng thanh toán cũng như danh tiếng của công ty vượt trội so với toàn ngành. Tuy nhiên, tỷ lệ đánh đổi rủi ro lợi nhuận của công ty vào năm 1998 tương đương mức toàn ngành như đã thấy trong hệ số đồng biến thiên. Các nhà đầu tư hiển nhiên nhận thấy sự tăng trưởng trong tỷ lệ nợ trên vốn là đáng báo động, do vậy, tỷ lệ giá trên thu nhập (P/E) giảm từ 10,5 năm 1998 xuống 10,0 năm 2005, trong khi đó tỷ lệ P/E của ngành không thay đổi trong cùng kỳ.

        Việc chi tiết hoá các hệ số như trong bảng 5 giúp các công ty chỉ ra được những điểm yếu và điểm mạnh trong hoạt động cuả mình. Như vậy, việc phân tích các hệ số cung cấp cho các nhà quản lý những công cụ để cải thiện và phát triển hoạt động của công ty.



Vấn đề sử dụng hệ số P/E

       Với phương pháp sử dụng hệ số P/E cũng nảy sinh một số vấn đề:

-    Liệu E (lợi nhuận trên mỗi CP của dqanh nghiệp) có phản ánh đúng lợi nhuận “thực” không hay còn chịu ảnh hưởng của các chính sách kế toán được áp dụng?

-    Nên sử dụng E của năm tài chính trước, của 12 tháng kinh doanh gần nhất hay của năm tài chính hiện thời? 

    Liệu hệ số so sánh có phản ánh đúng giá trị “thực” của toàn ngành hay toàn thị trường mà doanh nghiệp hoạt động?

-     Liệu hệ số P/E có cần điều chỉnh so với thực tế của doanh nghiệp hay không?

     Một điểm cần lưu ý nữa là việc sử dụng thuật ngữ “giá trị thực” của CP là chưa chuẩn xác bởi cụm từ “Intrinsic value” mà các nhà chuyên môn sử dụng trong trường hợp này có nghĩa đúng hơn là “giá trị nội tại”.

     Thuật ngữ “giá trị thực” có thể sử dụng lẫn lộn với “giá trị nội tại” khi nói đến các công cụ tài chính đơn giản và xác định như trái phiếu, tín phiếu… nhưng lại không được phép lẫn lộn khi đề cập đến công cụ tài chính là CP.

Vấn đề sử dụng hệ số P/E

     “Giá trị nội tại” của một công ty được định nghĩa là giá trị chiết khấu của luồng tiền mà công ty đó có thể đem lại trong tương lai. Tuy nhiên để tính giá trị này hoàn toàn không đơn giản. Chỉ có thể ước tính giá trị này trên cơ sở những thông tin và giả định hiện có, bên cạnh đó phải điều chỉnh ước tính nàyngay khi những thông tin và giả định này thay đổi.

       Hai người với cùng có những thông tin như nhau khó tránh khỏi việc đưa ra những giá trị ước tính khác nhau. Vì vậy việc khẳng định giá chứng khoán đã “vượt quá giá trị thực” và kỳ vọng các nhà đầu tư khác cũng thừa nhận kết luận này là một ý tưởng hết sức chủ quan.

        Đã đến lúc cần thay đổi cách sử dụng thuật ngữ “giá trị thực” và thay vào đó là một thuật ngữ mang tính chuyên môn hơn – “giá trị nội tại” có lẽ là một thuật ngũ thích hợp. Bản thân thuật ngữ này sẽ nhắc nhở cho tất cả các nhà đầu tư, các nhà chuyên môn và các nhà quản lý rằng: nhận định về giá trị một doanh nghiệp luôn mang tính chủ quan, nhận định này sẽ được đánh giá và thưởng phạt xứng đáng thông qua một thị trường hoạt động với sự can thiệp tối thiểu của các nhà quản lý, nơi mà người mua và người bán sẽ là những người quyết định giá của hàng hóa họ đang mua bán.




Cổ tức và tỷ suất cổ tức

      Cổ tức là khoản tiền mà các công ty trích ra từ lợi nhuận để trả cho cổ đông. Người ta thường tính cổ tức trên một cổ phiếu. Tuy nhiên khi so sánh cổ tức giữa các công ty, bạn lại phải quan tâm tới tỷ suất cổ tức. Đây là một tỷ lệ phần trăm giữa cổ tức và thị giá cổ phiếu. Chỉ tiêu này cho biết tỷ lệ cổ tức bạn sẽ nhận được so với số tiền bạn phải trả để mua cổ phiếu. Ví dụ, nêu bạn nhận được 2 đôla Mỹ hàng năm từ mỗi cổ phiếu và thị giá cổ phiếu là 50 đôla thì tỷ suất cổ tức sẽ là 4%. Không phải bất cứ cổ phần nào cũng đem lại cho bạn cố tức. Nếu một công ty đang tăng trưởng nhanh có thê làm lợi cho các cổ đông bằng cách tái đầu tư, trong trường hợp đó, nó sẽ không trả cổ tức. Ví dụ công ty Microsoft không trả cổ tức nhưng các cổ đông của công ty không hề phàn nàn gì về điều này. Một cô phiếu không được trả cổ tức không hẳn là cổ phiếu của công ty đang làm ăn thua lỗ.Tuy nhiên, rất nhiều nhà đầu tư muốn được trả cổ tức, đặc biệt là các nhà đầu tư ở tuổi sắp nghi hưu, vì cả lý do thu nhập và an toàn.

tỷ suất cổ tức

     Tuy nhiên, bạn cũng không nên chỉ tìm mua những cố phiếu có tỷ suất cổ tức cao bởi vì bạn có thể sẽ nhanh chóng gặp rắc rối. Giả sử cổ phiếu nói trên có cổ tức 2 đôla và tỷ suất cổ tức 4%, tức là cao hơn hẳn tỷ suất trung bình của thị trường (2%). Điều này không có nghĩa là mua cổ phiếu đó là tốt nhất. Hãy xem xét điều gì sẽ xảy ra nếu công ty đó không thực hiện được kế hoạch thu nhập và giá cổ phiếu sụt trong vòng 1 đêm từ 50 xuống còn 40 đôla một cổ phiếu. Điều đó có nghĩa là giá cô phiếu giảm 20% và đẩy tỷ suất cổ tức lên tới 5% (2đôla/40 đôla). Liệu bạn có muốn đầu tư vào một cổ phiếu như vậy chỉ vì tỷ suất cổ tức cao hơn? Có lẽ là không. Ngày cả khi tìm mua những cổ phiếu cho nhiều cổ tức, bạn cũng phải chắc chắn là công ty đó không có vấn đề gì về tài chính.

      Khi bạn tìm mua những cổ phiếu có tỷ suất cổ tức cao, bạn cần xem xét tỷ lệ trả cổ tức của công ty. Chỉ số này thể hiện tỷ lệ phần trăm lợi nhuận được trích ra để trả cho cổ đông dưới hình thức cổ tức. Nếu tỷ lệ này vượt quá 75% có nghĩa là công ty không tái đầu tư lợi nhuận một cách hợp lý. Một tỷ lệ trả cổ tức cao thường hàm ý là thu nhập của công ty được sử dụng phần lớn để trả cho cổ đông và có nghĩa là công ty đang cố gắng thu hút các nhà đầu tư mua cổ phiếu của mình.



Thứ Sáu, 31 tháng 7, 2015

Nguồn nhân lực của doanh nghiệp

       Nguồn nhân lực cũng quan trọng tương đương với khả năng tài chính của doanh nghiệp. Khả năng tài chính của doanh nghiệp có thể sẽ mất dần theo thời gian nhiều vụ đầu tư vào các hợp đồng tương lai đã làm biến mất hoàn toàn khả năng tài chính của nhiều công ty đa quốc gia, nhưng rất hiếm khi một doanh nghiệp bị mất hoàn toàn năng lực của nhân viên của nó. Mặt khác, tuy đào tạo được một nguồn nhân lực có khả năng vừa mất nhiều thời gian vừa tốn kém hơn là thay đổi kỹ thuật sản xuất nhưng không phải khi nào máy móc cũng có thể thay thế con người. Một doanh nghiệp có hai dạng nhân lực:

        Sản xuất có thể từ nguồn lợi nhuận để lại phát hành chênh lệch… Như vậy nhà đầu tư mua cổ phần với giá 120.000 đồng thì họ vẫn mua đúng với giá trị thật trên sổ sách của nó.

        Nếu NAV là 120.000 đồng nhưng lợi nhuận công ty đạt được cao thì nhà đầu tư cũng có thể mua cổ phiếu với giá cao hơn NAV để mong lợi nhuận gia tăng khi đó sẽ có chia cổ tức có tích luỹ và NAV sẽ tiếp tục tăng nữa trong thời gian tối.

Nguồn nhân lực của doanh nghiệp

        Nếu NAV là 120.000 đồng nhưng công ty vẫn đang lỗ có nghĩa sẽ tiếp tục giảm NAV thì bạn có quyết mua với 120.000 đồng hay cao hơn không. Đây là quyết định khó khăn và rủi ro nhất nó phụ thuộc nhiều vào việc đánh giá phân tích của nhà đầu tư về công ty ở nhiều khía cạnh thông tin chính xác về công ty tương lai để quyết định, ở đây chỉ có một nguyên tắc đơn giản mà nhà đầu tư chấp nhận đầu tư đó là “lợi nhuận cao thì rủi ro cao”.

         Nói tóm lại NAV là thước đo bảo thủ nhất để nhà đầu tư quyết định mua cổ phiếu của công ty theo giá trị thực của công ty. Trong thực tế điều chú trọng nhất vẫn là vấn đề “lợi nhuận” luôn được đặt lên hàng đầu vì đó là cơ sở chính để đánh giá khả năng sinh lòi của việc sử dụng đồng vốn của công ty.


Đọc thêm tại:

Tóm tắt bản cáo bạch

Phần này giúp bạn tìm hiểu khái quát những thông tin tóm tắt về công ty:

+ Giới thiệu chung về công ty phát hành, các hoạt động kinh doanh, người hỗ trợ phát hành, các cổ đông lớn và Ban giám đốc của công ty;

+ Tóm tắt về thông tin tài chính của công ty phát hành, kể cả triển vọng của công ty;

+ Tóm tắt về các yếu tố rủi ro liên quan hoặc ảnh hưởng tới hoạt động kinh doanh và tài chính của công ty phát hành;

+ Tóm tắt về vốn cổ phần, thống kê phát hành hoặc chào bán, số nợ, số tiền thu được từ đợt phát hành và mục đích sử dụng số tiền này.

+ Ngoài ra bạn nên đối chiếu với các phần tương ứng khác trong Bản cáo bạch để có được các thông tin chi tiết mà bạn cần quan tâm.

+ Thông tin về ngành kinh doanh – công ty đang có những hoạt động kinh doanh gì?

Tóm tắt bản cáo bạch

Thông tin đưa ra thường bao gồm:

+ Tình hình (các) ngành kinh doanh chính mà công ty phát hành tham gia;

+ Triển vọng của (các) ngành liên quan có ảnh hưỏng tối hoạt động ngành kinh doanh chính của công ty phát hành;

+ Loại sản phẩm, dịch vụ kinh doanh chính của công ty;

+ Khách hàng và nhà cung cấp của công ty phát hành;

+ Công nghệ, phương thức sản xuất và kênh phân phối sử dụng; 

+ Các nhân tố thương mại như hệ thông bán lẻ, đại lý, hệ thông phân phôi, nhãn hiệu sản phẩm, giấy phép kinh doanh, bằng sáng chế và khả năng nghiên cứu và phát triển.

        Đối với các công ty đăng ký niêm yết được hưởng chính sách ưu đãi thì phần thông tin về ngành kinh doanh này trong Bản cáo bạch cũng cần phải công bố chi tiết các vấn đề về công nghệ của những công ty này.



Thông tin tài chính – công chúng đầu tư tham gia có làm lợi nhuận giảm?

      Thông tin tài chính là một phần quan trọng trong Bản cáo bạch và thường được chia thành 2 phần:

-    Thông tin tài chính trong quá khứ;

-    Thông tin tài chính trong tương lai.

a)     Phần thông tin tài chính trong quá khứ

      Thường bao gồm tóm tắt các bản báo cáo tài chính đã được kiểm toán, và bảng cân đối kế toán (trên cơ sở tổng hợp) theo mẫu, được trích ra từ Báo cáo của kiểm toán trong phần phụ lục của Bản cáo bạch. Một số ngành kinh doanh còn yêu cầu cung cấp cả thông tin về luồng thu nhập. Việc công bố thông tin tài chính trong quá khứ thường được tính từ 2 năm tài chính trước. Thông tin phải đi kèm với phần giải thích và phân tích hoạt động tài chính trong quá khứ. Nếu có bất cứ một sai sót nào trong các thông tin tài chính được công bố mà Uỷ ban Chứng khoán phát hiện được thì tổ chức kiểm toán cũng như tổ chức bảo lãnh phát hành phải chịu trách nhiệm liên đói trước pháp luật cùng với tổ chức phát hành.

Thông tin tài chính

b)     Phần thông tin tài chính tương lai

     Gồm các dự tính về:

-     Doanh thu;

-    Lợi nhuận trước thuế trước và sau khi tính lãi cho cổ đông thiểu số ngoài công ty;

-    Lợi nhuận sau thuế;

-    Tổng cổ tức và cổ tức ròng.

       Từ dự tính về lợi nhuận và giá chào bán cổ phiếu của công ty phát hành, bạn có thể tính ra các mức giá thị trường của một cố phiếu tính theo thu nhập trên mỗi cổ phiếu trong năm của công ty phát hành (được ký hiệu là p /E). Hệ sô này cho thấy khi nào thì giá cố phiếu phù hợp với thu nhập. Tức là các công ty có nhiều cơ hội tăng trưởng thường có p /E cao hơn các công ty có ít cơ hội tăng trưởng. Tuy nhiên, cũng cần lưu ý trường hợp p /E cao có thề là do mức thu nhập (E) thấp. Căn cứ vào hệ số p /E, cùng với sự phân tích về mặt chất lượng của công ty phát hành, bạn có thể đánh giá đợt phát hành, chào bán cổ phiếu của công ty so với các mức cổ phiếu đã được niêm yết của các công ty trong cùng ngành.



Cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc – ai là người điểu hành đợt phát hành

       Bạn nên đọc danh sách các cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đốc. Mặc dù các dữ liệu đưa ra không phải là con dấu đảm bảo về chất lượng kỹ năng quản lý của họ, nhưng bạn vẫn có thể biết được trình độ chuyên môn và kinh nghiệm quản lý của những con người này.

        Bạn cần chú ý đến quyển lợi của các cổ đông lớn, Hội đồng quản trị và đội ngũ lãnh đạo chủ chốt trong các ngành tương tự ; hoặc các ngành cạnh tranh nếu chúng được nêu trong Bản cáo bạch. Bạn cũng nên chú ý các giao dịch trong quá khứ hoặc trong tương lai với các công ty liên quan. Bản cáo bạch sẽ cung cấp đầy đủ các nhóm thành viên sau:

Cổ đông, Hội đồng quản trị

-       Cổ đông lớn và các nhà sáng lập của công ty phát hành, kể cả tên và cổ phần của các cá nhân đứng đằng sau công ty;

-       Hội đồng quản trị bao gồm cổ phần mà họ đại diện, chi tiết vế trình độ, kinh nghiệm và phần trách nhiệm của mỗi giám đốc, và họ có phải là các giám đốc điểu hành hay không;

-     Đội ngũ cán bộ quản lý dưới cấp uỷ viên Hội đồng quản trị,chi tiết về trình độ, kinh nghiệm và phần trách nhiệm của họ;

-        Tỷ lệ sở hữu cổ phiếu, trái phiếu của từng thành viên nói trên



Bản cáo bạch bao gồm những thông tin gì?

Bản cáo bạch thường gồm 8 mục chính sau:

-           Trang bìa;

-           Tóm tắt Bản cáo bạch;

-           Các nhân tố rủi ro;

-           Các khái niệm;

-           Chứng khoán phát hành;

-           Các đối tác liên quan tối đợt phát hành;

-           Tình hình và đặc điểm của tổ chức phát hành;

-           Phụ lục.

Cách sử dụng bản cáo bạch

      Bạn nên bắt đầu phân tích một công ty phát hành bằng Bản cáo bạch của công ty. Trong quá trình thực hiện bạn nên tự đặt ra cho mình một số câu hỏi quan trọng. Ví dụ, việc kinh doanh của công ty đó có tiến triển hay không?, doanh số bán hàng tăng có nghĩa là lợi nhuận cũng tăng và dẫn tới giá cổ phiếu tăng. Nhưng các con số chưa phải nói lên tất cả. Do vậy, bạn nên nghiên cứu kỹ Bản cáo bạch để tìm ra những dấu hiệu tăng trưởng của công ty. Bạn cũng nên tìm hiểu về Ban giám đốc của công ty phát hành, các sản phẩm của công ty và tự đặt ra câu hỏi liệu các sản phẩm này có tiếp tục bán được nữa không?

sử dụng bản cáo bạch

Những thông tin cần xem

-           Trang bìa (mặt trước và mặt sau);

-           Thời gian chào bán;

-           Các khái niệm;

-           Tình hình và đặc điểm của tổ chức phát hành;

-           Bảng mục lục;

-           Tóm tắt Bản cáo bạch;

-           Tóm tắt về vốn cổ phần, thống kê số liệu phát hành / chào bán, số nợ và phương án sử dụng tiền thu được từ đợt phát hành;

-           Chứng khoán phát hành;

-           Thông tin về ngành kinh doanh;

-           Thông tin tài chính;

-           Thông tin về cổ đông, Hội đồng quản trị và Ban giám đôc;

-           Các đối tác liên quan tới đợt phát hành;

-           Các nhân tố rủi ro liên quan đến ngành kinh doanh và triển vọng của công ty;

-           Phụ lục;

-           Thủ tục nộp hồ sơ và chấp thuận.

Thông tin chính của trang bìa

- Các chứng khoán sẽ được bán;

- Số lượng chứng khoán sẽ được bán;

- Giá bán các chứng khoán;

- Tổ chức liên quan đến đợt phát hành.



Thứ Năm, 30 tháng 7, 2015

Tại sao cần phải đọc bản cáo bạch

     Khi phát hành chứng khoán ra công chúng, công ty phát hành phải công bố cho người mua chứng khoán những thông tin về bản thân công ty, nêu rõ những cam kết của công ty và những quyền lợi cơ bản của người mua chứng khoán… để trên cơ sở đó người đầu tư có thể ra quyết định đầu tư hay không. Tài liệu phục vụ cho mục đích đó gọi là Bản cáo bạch (BCB) hay Bản công bố thông tin.

     BCB chính là một lời mời hay chào bán để công chúng đầu tư đăng ký hoặc mua chứng khoán của công ty phát hành. BCB bao gồm mọi thông tin liên quan đến đợt phát hành. Do đó, thông tin đưa ra trong BCB sẽ gắn với các điều khoản thực hiện lời mời hay chào bán.

    Thông thường, một công ty muốn phát hành chứng khoán phải lập BCB để UBCKNN xem xét, gọi là BCB sơ bộ. BCB sơ bộ khi đã được UBCKNN chấp thuận sẽ được coi là BCB chính thức. Khi thực hiện chào bán chứng khoán, ngoài BCB chính thức, công ty phát hành thường cung cấp BCB tóm tắt. Nội dung BCB tóm tắt là tóm gọn lại những nội dung chính của BCB chính thức nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ theo các quy định của UBCKNN.

Tại sao cần phải đọc bản cáo bạch

     Bản cáo bạch là một tài liệu rất quan trọng.Với tư cách là một nhà đầu tư,Bản cáo bạch là phương tiện giúp bạn đánh giá mức độ sinh lời và triển vọng của công ty trước khi bạn quyết định có đầu tư vào công ty hay không. Một quyết định thiếu thông tin có thể làm bạn phải trả giá đắt.

    Bởi vậy, bạn nên đọc Bản cáo bạch một cách kỹ lưỡng và tìm hiểu rõ những may rủi thực sự của công ty trước khi ra quyết định đầu tư. Bạn nên đánh giá cẩn thận những yếu tố cơ bản của công ty đăng ký niêm yết thông qua nghiên cứu các thông tin trong Bản cáo bạch. Mặc dù những đợt chào bán làn đầu ra công chúng thường là cơ hội đầu tư tốt vì chúng thường mang lại lợi nhuận ban đầu cao, do cổ phiếu tăng giá, nhưng rủi ro vẫn tồn tại.



Hệ số thu nhập trên cổ phần, Hệ số thu nhập trên đầu tư

Hệ s thu nhập trên cổ phần

Hệ số thu nhập trên cổ phần (ROE) là thước đo tỷ suất lợi nhuận của các cổ đông. Nhà phân tích chứng khoán, cũng như các cổ đông, đặc biệt quan tâm đến hệ số này.

Nói chung hệ số thu nhập trên cổ phần càng cao thì các cố phiếu càng hấp dẫn. Hệ số này là một cách đánh giá khả năng sinh lời và các tỷ suất lợi nhuận của công ty khi so sánh với hệ số thu nhập trên cổ phần của các cô phiếu khác. Hệ số này có thể được tính như sau:

                                  Lợi nhuận ròng sau thuế

ROE =    ——————————————————————

                  Vốn cổ đông hay giá trị tài sản ròng hữu hình

Hệ số thu nhập trên cổ phần

Hệ s thu nhập trên đầu tư

Hệ số thu nhập trên đầu tư (ROI) được công ty Du Pont phát triển cho mục đích sử dụng riêng, nhưng ngày nay nó được rất nhiều công ty lớn sử dụng như là một cách thức tiện lợi để xác định tổng thể các ảnh hưởng của các biên lợi nhuận doanh thu tổng tài sản.

             Thu nhập ròng       Doanh số bán               Thu nhập ròng

ROI  =   ——————- x     ——————      =        ——————–

              Doanh số bán       Tổng tài sản                  Tổng tài sản

Mục đích của công thức này là so sánh cách thức tạo lợi nhuận của một công ty, và cách thức công ty sử dụng tài sản để tạo doanh thu. Nếu tài sản được sử dụng có hiệu quả, thì thu nhập (và ROI) sẽ cao, và nếu ngược lại, thu nhập và ROI sẽ thấp.


Đọc thêm tại:

Hệ số lợi nhuận hoạt động, Hệ số lợi nhuận ròng

Hệ số lợi nhuận hoạt động.

Hệ số lợi nhuận hoạt động cho biết Ban quản lý của một công ty đã thành công đến mức nào trong việc tạo ra lợi nhuận từ hoạt động của công ty.

                                                EBIT

Mức lãi hoạt động =    ——————–

                                          Doanh thu

Tử số của hệ số này là thu nhập trước thuế và lãi hay chính là thu nhập tính được sau khi lấy doanh thu trừ trị giá hàng bán đã tính theo giá mua và cốc chi phí hoạt động (EBIT).

Ví dụ: Nếu EBIT lên tới 200.000 USD trong khi doanh thu 1.000.000 USD

                                                     $200.000

Hệ số lợi nhuận hoạt động = ——————–

                                                     $1.000.000

Hệ số này là một thước đo đơn giản nhằm xác định đòn bẩy hoạt động mà một công ty đạt được trong việc thực hiện hoạt động kinh doanh của mình. Hệ số biên lợi nhuận hoạt động cho biết 1USD doanh thu có thể tạo ra bao nhiêu EBIT. Hệ số lợi nhuận hoạt động cao có nghĩa là quản lý chi phí có hiệu quả hay nghĩa là doanh thu tăng nhanh hơn chi phí hoạt động. Các nhà quản lý cần phải tìm ra các nguyên nhân khiến hệ số lợi nhuận hoạt động cao hay thấp để từ đó họ có thể xác định xem công ty hoạt động có hiệu quả hay không, hoặc xem giá bán sản phẩm đã tăng nhanh hơn hay chậm hơn chi phí vốn.

Hệ số lợi nhuận ròng

Hệ số lợi nhuận ròng

Hệ số lợi nhuận ròng là hệ số từ mọi giai đoạn kinh doanh. Nói cách khác đây, là tỷ số so sánh lợi nhuận ròng với doanh số bán.

                                       Lợi nhuận ròng

Mức lãi ròng   =         —————————

                                            Doanh số

Ví dụ: Nếu lợi nhuận sau thuế của một cồng ty là 100.000 USD và doanh thu của nó là 1.000.000 USD.

                                              100.000

Hệ số lợi nhuận ròng =  ———————-      = 10%

                                             1.000.000

Một số công ty có mức lợi nhuận ròng hơn 20%, và một số khác có chỉ đạt khoảng từ 3% đến 5%. Hệ số lợi nhuận ròng giữa các ngành khác nhau là khác nhau. Thông thường, các công ty 

được quản lý tốt đạt được mức lợi nhuận ròng tương đối cao hơn vì các công ty này quản lý các nguồn vốn của mình có hiệu quả hơn. Xét từ góc độ nhà đầu tư, một công ty sẽ ở vào tình trạng thuận lợi sẽ có mức lợi nhuận ròng cao hơn lợi nhuận ròng trung bình của ngành và nếu có thể, có mức lợi nhuận liên tục tăng. Ngoài ra, một công ty càng giảm chi phí của mình một cách hiệu quả- ở bất kỳ doanh số nào thì mức lợi nhuận ròng của nó càng cao.



Hệ số tổng lợi nhuận

     Các nhà đầu tư, các cổ đông và các nhà quản lý tài chính đặc biệt chú ý tới khả năng sinh lãi của các công ty. Việc phân tích lợi nhuận có thể bắt đầu bằng việc nghiên cứu cách thức một công ty sử dụng cơ cấu vốn. Các nhà quản lý giỏi sử dụng có hiệu quả tài sản của mình. Thông qua việc tăng hiệu quả sản xuất, các công ty có thể giảm hoặc kiểm soát được các chi phí. Tỷ lệ lợi nhuận do bất kỳ một công ty nào đạt được là quan trọng nếu các nhà quản lý của công ty đó mong muốn thu hút vốn và thực hiện việc tài trợ thành công cho sự phát triển của công ty.

Nếu tỷ lệ lợi nhuận của một công ty tụt xuống dưới mức có thể chấp nhận được, thì P/E (giá trên thu nhập) và giá trị các cổ phiếu của công ty giảm xuống – điều đó giải thích tại sao việc đánh giá khả năng sinh lòi lại đặc biệt quan trọng đối với một công ty.

Hệ số tổng lợi nhuận cho biết mức độ hiệu quả khi sử dụng nguyên liệu và lao động trong quy trình sản xuất của ban quản lý một công ty.

Hệ số tổng lợi nhuận


                                         Doanh số – Trị giá hàng bán tính theo giá mua

Hệ số tổng lợi nhuận = —————————————————————

                                                                      Doanh số bán

Ví dụ: Nếu một công ty có doanh số bán là 1.000.000 USD và giá trị hàng bán tính theo giá mua lên tới 600.000 USD, thì hệ số tổng lợi nhuận của công ty sẽ là:

                                        $1.000.000-$600.000

Hệ số tổng lợi nhuận = ———————————-

                                                 $1.000.000

Khi chi phí lao động và chi phí nguyên vật liệu tăng nhanh, hệ số tổng lợi nhuận chắc chắn sẽ giảm xuống, trừ khi công ty có thể chuyển các chi phí này cho khách hàng của mình dưới hình thức nâng giá bán sản phẩm. Một cách để tìm xem các chi phí này có quá cao không là so sánh hệ số tổng lợi nhuận của một công ty với hệ số của các công ty tương đồng. Nếu hệ số tổng lợi nhuận của các công ty đôi thủ cạnh tranh cao hơn, thì công ty cần phải thực hiện một biện pháp nào đó để có được sự kiểm soát tốt hơn đối với chi phí lao động và nguyên liệu.




Hệ số thu nhập và hệ số trang trải

Hệ số thu nhập trả lãi định kỳ

Việc tìm xem một công ty có thể thực hiện trả lãi đến mức độ nào cũng rất quan trọng. Để đạt được mục đích này, bạn có thể sử dụng hệ số thu nhập trả lãi định kỳ. Hệ số này đánh giá khả năng sử dụng thu nhập hoạt động (thu nhập trước thuế và lãi – EBIT) để trả lãi của một công ty. Hệ số này cho biết một công ty có khả năng đáp ứng được nghĩa vụ trả nợ lãi của nó đến mức nào. Rõ ràng, hệ số thu nhập trả lãi định kỳ càng cao thì khả năng thanh toán lãi của công ty cho các chủ nợ của mình càng lớn.

                                                                    EBIT

Hệ số thu nhập trả lãi định kỳ = ——————————-

                                                      Chi phí trả lãi hàng năm

                                                         8.000.000

Hệ số thu nhập trả lãi định kỳ =  —————- = 2,67

                                                         3.000.000

Nói cách khác, thu nhập cao gấp 2,7 làn chi phí trả lãi.

Tỷ lệ trả lãi thấp cho thấy một tình trạng nguy hiểm, suy giảm trong hoạt động kinh tế có thể làm giảm EBIT xuống dưới mức nợ lãi mà công ty này được hạn chế bởi thực tế EBIT không phải là nguồn duy nhất để thanh toán lãi. Các công ty cũng có thể tạo ra nguồn tiền mặt từ khấu hao và có thể sử dụng nguồn vốn đó đế trả nợ lãi. Những gì mà một công ty cần phải đạt tới là tạo ra một độ an toàn hợp lý, bảo đảm khả năng thanh toán cho các chủ nợ của mình.

Chỉ riêng hệ số thu nhập trả lãi định kỳ thì chưa đủ để đánh giá một công ty vì hệ số này chưa đề cập đến các khoản thanh toán cố định khác như tiền nợ gốc, chi phí tiền thuê và chi phí cổ tức ưu đãi.

Hệ số thu nhập

Hệ số trang trải chung.

Để giải quyết vấn đề có liên quan đến hệ số thu nhập trả lãi định kỳ, có thể tính toán hệ số trang trải chung:

                                              Các nguồn thu tiền mặt

Hệ số trang trải chung = —————————————

                                              Các chi phí cần trang trải

Tất cả chi phí trong mẫu số của hệ số này là cố định và đều phải được cân nhắc, rõ ràng, một công ty và các nhà đầu tư của công ty muốn có hệ sô” trang trải chung cao nhất, nhưng điều này phụ thuộc một phần vào khả năng sinh lãi của công ty.

Khi các hệ số nợ lớn quá mức, công ty có thể nhận thấy chi phí vốn của mình tăng lên. Giá trị các cô phiếu của công ty cũng có thể giảm xuống tương ứng với mức độ rủi ro của công ty tăng lên. Do đó, các nhà quản lý tài chính phải thận trọng để tránh tình trạng nợ trầm trọng trong cơ cấu vốn của mình. Các nguồn dữ liệu quan trọng của ngành có thể tìm thấy trong các báo cáo tài chính hàng quý từ Uỷ ban Chứng khoán về các ngành sản xuất, bán lẻ, khai thác mỏ. Bạn cũng có thể tham chiếu báo cáo của các tô chức định mức tín nhiệm để có các số liệu tổng hợp tương tự.



Từ khóa tìm kiếm nhiều: giao dịch chứng khoán, điều kiện phát hành chứng khoán

Thứ Tư, 29 tháng 7, 2015

Hệ sô hàng lưu (tồn) kho

Tỷ lệ doanh số hàng bán trên hàng lưu kho là quan trọng đối với công ty bởi vì hàng lưu kho là loại tài sản ít lưu hoạt nhất trong các tài sản lưu động. Vì công ty phải dùng một lượng vốn để duy trì hàng lưu kho nên công ty sẽ được lợi khi bán hàng càng nhanh càng tốt lượng hàng này để giải phóng tiền mặt cho các mục đích sử dụng khác.

                                       Giá trị hàng đã bán tính theo giá mua

Hệ số hàng lưu kho=        ——————————————-

                                            Giá trị hàng lưu kho trung bình

Ví dụ: Nếu giá trị hàng hoá bán hàng năm của một công ty là $ 3.000.000 (tính theo giá mua) và giá trị hằng lưu kho trung bình là $ 300.000, thì tỷ lệ hàng đã bán trên hàng lưu kho của công ty này sẽ là 10 làn.

                                             $3.000.000

Hệ số hàng lưu kho= ————————– = 10 lần

                                              $300.000

Hệ sô hàng lưu (tồn) kho

Số liệu này phải được so sánh với hệ số trung bình của ngành trước khi đưa ra bất kì một bình luận nào, vì các hệ số trung bình của từng ngành khác nhau rất lớn.. Các công ty bán hàng hoá dễ hỏng, như rau tươi thường có tỷ lệ hàng đã bán trên hàng lưu kho rất cao, trong khi đó con 30″ này ở một công ty sản xuất đèn ngủ sẽ thấp hơn nhiều. Tuy nhiên nếu hệ sô” của một công ty thấp hơn hệ sô” trung bình của ngành, thì nhà quản lý cần kiểm tra xem tại sao hàng lưu kho lại luân chuyển chậm quá như vậy.

Cần thận trọng khi xem xét hàng đã bán trên hàng lưu kho. Tỷ lệ hàng đã bán trên hàng lưu kho cao không phải bao giờ cũng có nghĩa là việc bán hàng của công ty có hiệu quả. Hệ số hàng đã bán trên hàng lưu kho có thể rất cao khi công ty liên tục hết hàng dự trữ vì công ty không sản xuất đủ hoặc không mua đủ hàng hoá. Trong trường hợp này, hệ số cao thực tê lại cho thấy việc lập kế hoạch hay việc quản lí hàng dự trữ tồn. Do đó, trừ khi đã nghiên cứu kỹ chính sách về hàng lưu kho của một công ty, việc sử dụng chỉ riêng hệ số này chưa thể cung cấp đủ thông tin về khả năng huy động tiền mặt của công ty.




Hệ số thu hồi nợ và hệ số thanh toán trung bình

Các hệ số hoạt động xác định tốc độ mà một công ty có thế tạo ra được tiền mặt nếu có nhu cầu phát sinh. Rõ ràng là một công ty có khả năng chuyển đổi hàng dự trữ và các khoản phải thu thành tiền mặt nhanh hơn sẽ có tốc độ huy động tiền mặt nhanh hơn. Các hệ số sau đây và việc tính toán được thiết lập dựa trên giả định rằng một năm có 360 ngày.

 Hệ số thu hồi nợ trung bình:

Việc tìm ra kỳ thu hồi nợ bán hàng trung bình của một công ty sẽ cho bạn biết công ty đó phải mất bao lâu để chuyển các khoản phải thu thành tiền mặt. Lưu ý rằng doanh số bán thu tiền ngay được loại khỏi tổng doanh thu.

                                                         Các khoản phải thu

Kỳ thu hồi nợ trung bình =   ——————————————–

                                              Doanh số bán chịu hàng năm/360 ngày

Hệ số thu hồi nợ

  Hệ số thanh toán trung bình

Đối lập với các khoản phải thu là các khoản phải trả. Để tìm ra thời hạn thanh toán trung bình đối với các khoản phải thu, ta chia các khoản phải trả cho tiền mua hàng chịu mỗi năm

                                                                Các khoản phải trả

Thời hạn thanh toán trung bình =   —————————————

                                                   Tiền mua hàng chịu hàng năm/360 ngày

Tuy nhiên, tiền mua hàng chịu hàng năm không được đề cập trong một báo cáo tài chính. Để có được sô” liệu này, phải dự tính tỷ lệ giá trị hàng hoá được mua chịu.

Ví dụ: tính toán thời hạn thanh toán trung bình.

Giả định rằng số liệu các khoản phải trả của công ty là 275.0 USD. Nếu giá mua hàng là 3.000.000 USD và dự tính là 80% hàng hoá này được mua chịu thì thời hạn thanh toán trung bình là bao nhiêu? Số tiền mua chịu hàng năm sẽ là 2400.0 USD (3.000.000 X 0.80). Bây giờ, thời hạn thanh toán trung bình đối với các khoản phải trả có thể được tính như sau:

                                                                         $275.000

Thời hạn thanh toán trung bình=     ————————————- = 41.3 ngày

                                                              80 X $3.000.000 /360ngày

Thời hạn thanh toán trung bình (đối với các khoản phải trả) của công ty là 41.3 ngày. Bất kỳ thời hạn nào ngắn hơn có nghĩa là người bán dành cho công ty một khoản chiết khấu hoặc người bán cho rằng công ty đang trong tình trạng rủi ro cao nên đã đưa ra các điều khoản chặt chẽ hơn về thời hạn thanh toán nợ. Bất kỳ thời hạn nào dài hơn cũng có nghĩa là công ty đã nhận được các điều khoản tín dụng ưu đãi, hay công ty là một “người trả chậm”, tức là công ty đang sử dụng những người cung cấp nguyên liệu như một nguồn tài trợ.

Đọc thêm tại: http://blogtimhieuchungkhoan.blogspot.com/2015/07/anh-gia-tong-tinh-hinh-tai-chinh-cua.html


Từ khóa tìm kiếm nhiều: nhận định thị trường chứng khoán, phát hành chứng khoán